nhiễm cmv trẻ em
2 Ở nước ta chưa có nhiều nghiên cứu viêm gan trẻ em nói chung đặc biệt viêm gan CMV Những nghiên cứu tổn thương gan CMV hạn chế như: xét nghiệm tìm tác nhân viêm gan nhiều đắt tiền, này, tơi xin trình bày nội dung chính: Đại cương CMV Viêm gan CMV VIÊM
TỔNG QUANTỔNG QUAN ĐẶC ĐIỂM DỊCH TỄ HỌCĐẶC ĐIỂM DỊCH TỄ HỌC Khi đã bị nhiễm, người đó có thể mang CMV suốt đời.Khi đã bị nhiễm, người đó có thể mang CMV suốt đời. Nhiễm virus này thường tồn tại dưới dạng tiềm ẩn.Nhiễm virus này thường tồn tại dưới
Điều này khiến nhiều trẻ em, người có sức để kháng kém mắc bệnh viêm đường hô hấp. Tại các bệnh viện tỉnh và trung tâm y tế tuyến huyện, số ca nhập viện với biểu hiện ho, sốt cao, mệt mỏi do viêm đường hô hấp tăng cao so với cùng kỳ năm 2021 và những tháng
Nhiều bệnh viện Nhi trên khắp nước Mỹ đang trong tình trạng thiếu hụt giường bệnh do số trẻ em nhiễm virus RSV tăng cao trong thời gian gần đây. Tôi là phụ nữ Việt. Hội liên hiệp PNVN; Phong trào PNVN; Tác phẩm kinh điển về PNVN;
Não úng thủy xảy ra chủ yếu ở trẻ em và người lớn trên 60 tuổi, nhưng những người trẻ hơn cũng có nguy cơ mắc bệnh. Theo Viện Quốc gia về Rối loạn Thần kinh và Đột quỵ (các cháu gái), ước tính cứ 1.000 trẻ sinh ra thì có 1 trẻ mắc chứng rối loạn này.
Adenovirus là một nhóm virus có thể gây ra nhiễm trùng. Nhiễm trùng Adenovirus có thể xảy ra ở trẻ em với mọi lứa tuổi, nhưng chúng phổ biến hơn ở trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ. Hầu hết trẻ em đã từng bị nhiễm adenovirus ít nhất một lần trước 10 tuổi. Có nhiều loại adenovirus khác nhau, vì vậy trẻ rất có thể có khả năng bị nhiễm virus nhiều hơn một lần.
Vay Tiền Nhanh Chỉ Cần Cmnd. 21/07/2010 CN. Hạ Đình Bửu Thắm CN. Nguyễn Ngọc Trang Đài K. Xét nghiệm – BV Từ Dũ 1. Định nghĩa Virus Cytomegalo CMV là loại virus thuộc nhóm Herpes, tên gọi từ tế bào bị nhiễm virus phồng to lên. Đây là tác nhân có thể gây nhiều bệnh cho mọi nhóm tuổi, từ những bất thường bẩm sinh đến các rối loạn bệnh lý, đặc biệt ở người suy giảm miễn dịch. 2. Sự lây truyền và dịch tễ - CMV có mặt ở khắp nơi trên thế giới, chỉ gây dịch nhỏ. Cuộc sống cộng đồng và vệ sinh cá nhân kém là điều kiện thuận lợi cho sự lây truyền bệnh; khoảng 1% sơ sinh nhiễm CMV, tỉ lệ này cao hơn ở các nước đang phát triển. - CMV có thể hiện diện trong sữa mẹ, nước miếng, phân người và nước tiểu. Sự lây truyền theo nhiều kiểu khác nhau. Nhiễm ở tuổi chu sinh và trẻ em nhỏ xảy ra rất thường xuyên. Giai đoạn sớm thì truyền qua nhau thai, trong lúc sinh và trong sữa mẹ. Ở trẻ nhỏ thì truyền qua nước bọt. Lúc lớn thì truyền qua đường sinh dục, CMV hiện diện âm thầm trong tinh dịch và dịch tiết cổ tử cung. Nó cũng truyền qua đường máu hoặc ghép cơ quan. 80% người lớn có kháng thể. - Khoảng 40-80 % người lớn bị nhiễm CMV tại Hoa Kỳ trước tuổi 40. Ở các nước đang phát triển tỉ lệ này cao đến 90 %. 3. Tính chất CMV có tính đặc hiệu loài và tế bào, về cấu trúc và hình dạng tương tự như những herpesvirus khác, nhưng CMV chỉ có đơn độc 1 serotýp . Virus thường ẩn trong nguyên bào sợi để phân chia và tăng trưởng, được phân lập từ tế bào biểu mô ký chủ và tạo nhiều thể vùi. 4. Sinh bệnh học - Người là ký chủ tự nhiên. Lây truyền từ người sang người. Dòng CMV động vật không gây bệnh cho người. Đa số người bị nhiễm phát hiện được nhờ xét nghiệm. - Tỉ lệ mắc tăng lên ở những người nhận cơ quan ghép, hóa trị trong ung thư… Biến chứng thường gặp là viêm phổi, đặc biệt viêm phổi kẽ. - Một khi đã bị nhiễm thì người bệnh sẽ mang CMV suốt đời dù cho không có triệu chứng. CMV thường ngủ yên trong tế bào bạch cầu, sự tái hoạt CMVcó thể xảy ra khi các tế bào miễn dịch Lympho T bị suy yếu, do bệnh như nhiễm HIV hoặc sử dụng thuốc ức chế miễn dịch. - Trong trường hợp bệnh lan tỏa có thể tìm thấy CMV ở nhiều cơ quan, do sự lan tỏa của các đại bào chứa thể vùi nhưng số lượng đại bào không phản ánh được sự rối loạn chức năng của các cơ quan bị nhiễm. 5. Bệnh học Nhiễm CMV ở người lớn và trẻ em lớn Nhiễm CMV gây ra Hội chứng tăng bạch cầu đơn nhân nhiễm trùng. Thời gian ủ bệnh 20 – 60 ngày, xuất hiện triệu chứng bệnh sau 2 – 6 tuần với các triệu chứng sốt kéo dài, đôi khi lạnh run, suy yếu, khó chịu; đau cơ, lách to, viêm họng xuất tiết và viêm hạch ở cổ;…bất thường chức năng gan và bệnh lý lympho bào. Bệnh thường nhẹ, hầu hết bệnh nhân hồi phục không di chứng nhưng viêm gan cận lâm sàng lại thường gặp. Rất hiếm khi nhiễm CMV đưa đến tử vong, trừ các trường hợp bệnh nhân bị suy giảm miễn dịch. Đặc biệt ở bệnh nhân được ghép thận, ghép tủy bị đè nén miễn dịch để lại biến chứng viêm phổi mô kẽ với tỷ lệ cao. Nhiễm CMV chu sinh - Trẻ sơ sinh có thể bị nhiễm CMV trong lúc sinh khi ngang qua âm đạo hoặc nhiễm sau sinh khi bú sữa mẹ hay do tiếp xúc với các dịch tiết khác của mẹ. 40 – 60 % trẻ sơ sinh bú mẹ hơn một tháng mà mẹ có huyết thanh dương tính với CMV sẽ bị lây nhiễm. - Đa số các trẻ này đều không có triệu chứng, một số trẻ có thể có triệu chứng viêm phổi kẽ kéo dài. Một số triệu chứng khác hay gặp như cân nặng lúc sinh thấp, viêm hạch, nổi mẩn, viêm gan, tế bào lympho tăng và thiếu máu. - CMV có khả năng được thải không liên tục từ hầu họng và nước tiểu trong nhiều tháng, thậm chí nhiều năm. Nhiễm CMV bẩm sinh - Trẻ nhiễm virus trong thời kỳ thai nghén gây bệnh thể vùi tế bào khổng lồ. Tế bào khổng lồ được tạo thành gọi là Cytomegalo, có nhiều nhân nổi bật, nhiều thể vùi trong nhân. Nhiều cơ quan cũng bị nhiễm dẫn đến bất thường bẩm sinh. - Hầu như chỉ những thai nhi có mẹ bị nhiễm CMV lần đầu trong khi mang thai mới có triệu chứng lâm sàng. - Thai nhi có nhiều dạng biểu hiện lâm sàng từ không có triệu chứng đến thể nặng và lan rộng toàn thân. Một số triệu chứng như đốm mảng xuất huyết, gan, lách to, vàng da 60-80%, teo não và đầu nhỏ, nhu mô não bị vôi hóa, chậm phát triển trong tử cung30-50%, thoát vị bẹn và viêm võng mạc ít thấy hơn. Xét nghiệm cận lâm sàng men gan tăng, tiểu cầu giảm, bilirubin cao, tán huyết, protein trong dịch não tủy cao. Tiên lượng xấu tỉ lệ tử vong 20 - 30% , nếu còn sống sót có thể dẫn đến trì trệ tâm thần ở trẻ và điếc khi lớn lên. Gần như các trường hợp CMV bẩm sinh không có triệu chứng lâm sàng rõ rệt và sau này, 5-25% sẽ bị chậm phát triển tâm thần, mù, răng hỏng bất thường. 6. Chẩn đoán Các xét nghiệm giúp chẩn đoán xác định nhiễm CMV phân lập siêu vi CMV, tìm kháng thể - kháng nguyên CMV, thử nghiệm PCR tìm CMV-DNA hoặc quan sát trực tiếp bằng kính hiển vi điện tử. Phân lập virus- Bệnh phẩm nước rửa họng, nước tiểu. - Cấy bệnh phẩm vào tế bào và quan sát sự thay đổi tế bào sau 1-2 tuần lễ sẽ cho hình ảnh tế bào bị phồng to chứa nhiều thể vùi trong nhân tế bào. - Do sự hủy hoại tế bào xảy ra chậm 1-2 tuần nên khuyết điểm của phương pháp này là thời gian đọc kết quả lâu. - Phân lập virus kết hợp với chuyển đổi huyết thanh là phương pháp tốt nhất để chẩn đoán sơ nhiễm CMV ở người bình thường. Chẩn đoán huyết thanh học- Thử nghiệm trung hòa, miễn dịch huỳnh quang tìm kháng thể rất hữu ích trong chẩn đoán các trường hợp nhiễm trùng bẩm sinh nhưng không có biểu hiện lâm sàng. - Kháng thể đặc hiệu chống virus Cytomegalo là IgM, IgA và IgG. Kháng thể có trong sữa mẹ không ngăn chặn được sự lây truyền từ mẹ sang con và hạn chế được sự trầm trọng của bệnh. - Khi nhiễm CMV thì mang IgG dương tính suốt đời 7. Phòng bệnh - Hiện vẫn chưa có vaccine dự phòng CMV. - Sàng lọc kĩ máu trước khi truyền máu, sàng lọc tủy xương tạng ghép trước khi đưa vào người nhận - Trẻ bị bệnh thể vùi tế bào khổng lồ thải virus qua nước tiểu phải cách ly với những trẻ khác. - Có thể sử dụng CMV-globulin miễn dịch tiêm để hạn chế bớt các trường hợp nhiễm khi ghép tạng hoặc dự phòng nhiễm cho các bé có mẹ nhiễm tiên phát CMV trong lúc mang thai. Acyclovir hay valacyclovir có thể hạn chế bớt sự lây nhiễm CMV cho người nhận tạng ghép. 8. Điều trị Hiện chưa có thuốc điều trị đặc hiệu cho người nhiễm có thể làm giảm triệu chứng ở người suy giảm miễn dịch nhiễm CMV. Tài liệu tham khảo 1. Lý Văn học. Nhà xuất bản y học2. Bộ y tế. Trường ĐHYD học. Bộ môn vi sinh3. Hương Cát. Viện Thông tin y học Trung ương
Cytomegalovirus CMV, vi rút herpes người type 5 có thể gây nhiễm trùng có nhiều mức độ nghiêm trọng. Hội chứng tăng bạch cầu đơn nhân nhiễm khuẩn nhưng không kèm viêm họng nghiêm trọng thì thường gặp. Bệnh cư trú ở ổ nặng, bao gồm viêm võng mạc, có thể phát triển ở những bệnh nhân nhiễm HIV và ở những người nhận ghép tạng và những bệnh nhân suy giảm miễn dịch khác. Bệnh hệ thống nghiêm trọng có thể phát triển ở trẻ sơ sinh và những bệnh nhân suy giảm miễn dịch. Chẩn đoán xét nghiệm, hữu ích cho bệnh nặng, có thể liên quan đến việc nuôi cấy, xét nghiệm huyết thanh học, sinh thiết, hoặc phát hiện kháng nguyên hoặc phát hiện acid nucleic. Ganciclovir và các thuốc kháng vi-rút khác được sử dụng để điều trị bệnh nặng, đặc biệt là viêm võng vi rút herpes loại 5 của người được truyền qua máu, dịch cơ thể, hoặc các cơ quan được cấy ghép. Nhiễm trùng có thể xảy ra đột ngột hoặc trong khi lệ hiện mắc tăng theo tuổi; 60-90% người lớn bị nhiễm CMV dẫn đến nhiễm trùng lâu dài. Các nhóm kinh tế xã hội thấp có khuynh hướng có tỷ lệ nhiễm cao trùng mắc phải thường không có triệu chứng sau tưới máu/sau truyền máu có thể phát triển từ 2 đến 4 tuần sau khi truyền máu với các sản phẩm máu có chứa CMV. Nó gây sốt kéo dài từ 2 đến 3 tuần và biểu hiện giống như hội chứng tăng bạch cầu đơn nhân của CMV. Phát hiện kháng nguyên CMV hoặc DNANuôi cấy nước tiểu ở trẻ sơ sinhSinh thiết thường ở những bệnh nhân suy giảm miễn dịchXét nghiệm huyết thanh họcNhiễm trùng CMV được nghi ngờ là Những người khỏe mạnh có hội chứng giống như tăng bạch cầu đơn nhânNhững bệnh nhân suy giảm miễn dịch có các triệu chứng tiêu hóa, thần kinh trung ương, hoặc võng sơ sinh bị bệnh hệ thốngSự đảo chiều huyết thanh có thể được chứng minh bằng sự phát triển của các kháng thể CMV và đòi hỏi nhiễm CMV mới. Tuy nhiên, nhiều bệnh do CMV gây ra từ việc kích hoạt lại bệnh tiềm ẩn ở người chủ yếu bị suy giảm miễn dịch. Kích hoạt lại CMV có thể dẫn đến virut trong nước tiểu, các chất dịch cơ thể hoặc mô khác, nhưng sự hiện diện của CMV trong dịch cơ thể và mô không phải lúc nào cũng chỉ ra bệnh và có thể chỉ là sự lộ ra. Do đó, sinh thiết cho thấy CMV gây ra bất thường thường là cần thiết để chứng minh bệnh xâm nhập. Định lượng phát hiện kháng nguyên CMV hoặc DNA trong máu ngoại vi cũng có thể rất hữu ích vì tải lượng vi rút CMV tăng cao hoặc tăng cao thường gợi ý nhiều đến bệnh xâm đoán nhiễm CMV ở trẻ sơ sinh có thể được thực hiện bằng cách nuôi cấy nước tiểu. Đối với bệnh nghiêm trọng, thuốc kháng vi-rút ví dụ, ganciclovir, valganciclovir, foscarnet, cidofovirViêm võng mạc do CMV, xảy ra chủ yếu ở bệnh nhân AIDS, được điều trị bằng thuốc kháng virus toàn loại thuốc chống vi-rút CMV được sử dụng để điều trị bệnh nặng hơn là viêm võng mạc nhưng ít hiệu quả hơn so với viêm võng mạc. Các loại thuốc được sử dụng để điều trị viêm võng mạc CMV trong các phác đồ điều trị và điều trị duy trì Ganciclovir hoặc valganciclovirFoscarnet, có hoặc không có ganciclovirCidofovirHầu hết bệnh nhân đều nhận được điều trị theo kinh nghiệm với một trong những điều sau đây Ganciclovir 5 mg/kg IV mỗi 12 giờ trong 2 đến 3 tuầnValganciclovir 900 mg uống mỗi 12 giờ trong 21 ngàyNếu việc điều trị theo kinh nghiệm thất bại nhiều lần, cần dùng một loại thuốc khác. Điều trị duy trì giảm với một trong những điều sau đây được đưa ra sau khi điều trị tấn công Ganciclovir 5 mg/kg đường tĩnh mạch một lần/ngày Valganciclovir 900 mg uống 1 lần/ngàyNgoài ra, foscarnet có thể dùng kèm với hoặc không có ganciclovir. Liều dùng là Tấn công Foscarnet 60 mg/kg đường tĩnh mạch mỗi 8 giờ trong 2 đến 3 tuầnDuy trì Foscarnet 90 đến 120 mg/kg đường tĩnh mạch một lần/ngàyTác dụng phụ của foscarnet đường tĩnh mạch rất nghiêm trọng và bao gồm độc tính thận, giảm đường huyết dưới huyết áp triệu chứng, hạ huyết áp, tăng phosphate máu, hạ kali máu, và các ảnh hưởng CNS. Điều trị phối hợp với ganciclovir và foscarnet làm tăng hiệu quả cũng như tác dụng trị bằng Cidofovir là một sự lựa chọn khác; nó bao gồm Tấn công Cydofovir 5 mg/kg đường tĩnh mạch một lần/tuần trong 2 tuầnDuy trì Cidofovir 5 mg/kg đường tĩnh mạch mỗi tuần một lầnHiệu quả của cidofovir tương tự như của ganciclovir hoặc foscarnet. Tác dụng phụ đáng kể, bao gồm cả suy thận, hạn chế sử dụng. Cidofovir có thể gây viêm mống mắt hoặc giảm trương lực mắt áp lực đáy ≤ 5 mm Hg. Khả năng độc tính thận có thể giảm bằng cách cho probenecid và prehydration với mỗi liều. Tuy nhiên, các tác dụng phụ của probenecid, bao gồm phát ban, đau đầu, và sốt, có thể đủ ý nghĩa để ngăn ngừa việc sử dụng được sử dụng liệu pháp kháng virút tại dịch kính kết hợp với liệu pháp toàn thân cho bệnh nhân viêm võng mạc do CMV mà ngay lập tức đe dọa mắt tức là bệnh liên quan hoặc gần dây thần kinh thị giác hoặc tử cung. Ngay cả những bệnh nhân được tiêm mắt cũng cần được điều trị toàn thân để phòng ngừa CMV ở mắt đối diện và mô ngoài mắt. Điều trị dự phòng hoặc điều trị ưu tiên chủ động theo dõi bệnh nhân theo tải lượng virus và cho thuốc kháng vi-rút cho những người có bằng chứng nhiễm trùng có hiệu quả để dự phòng bệnh CMV ở người có ghép tạng hoặc người ghép tạng huyết thanh bị nhiễm CMV và có nguy cơ mắc bệnh CMV. Các loại thuốc được sử dụng bao gồm ganciclovir, valganciclovir, và foscarnet. Letermovir là một loại thuốc mới hơn với cơ chế tác dụng mới có thể được sử dụng để dự phòng trong cấy ghép tủy xương. Globulin hyperimmune CMV có thể được coi là để ngăn ngừa nhiễm CMV ở những người ghép tạng nhưng còn nhiều tranh cãi. Sáu mươi đến 90% người lớn bị CMV tiềm khỏe mạnh và người lớn có các triệu chứng nhẹ, không đặc hiệu hoặc đôi khi là hội chứng giống bạch cầu đơn nhân khi lần đầu tiên bị nhiễm trùng bẩm sinh có thể gây tử vong hoặc các ca tử vong nghiêm trọng, đôi khi gây tử vong bao gồm tổn thương gan nặng hoặc hệ thần kinh trung bệnh nhân suy giảm miễn dịch nặng có thể bị bệnh nghiêm trọng liên quan đến võng mạc, phổi, đường tiêu hoá, hoặc kháng vi-rút có thể giúp điều trị viêm võng mạc nhưng ít hiệu quả hơn khi các cơ quan khác bị ảnh bệnh nhân cấy ghép có nguy cơ nhiễm CMV cần phải có thuốc kháng virut dự phòng hoặc theo dõi chặt chẽ để xác định sớm nhiễm trùng. Bản quyền © 2023 Merck & Co., Inc., Rahway, NJ, USA và các chi nhánh của công ty. Bảo lưu mọi quyền.
A infecção pelo citomegalovírus é causada por um maioria dos recém-nascidos não apresenta sintomas, mas algumas apresentam sintomas a depender de quando foram médicos diagnosticam a infecção identificando o vírus em uma amostra de urina, saliva, sangue ou recém-nascidos podem desenvolver problemas neurológicos como perda lavagem das mãos pode ajudar a prevenir a propagação do infecção pelo citomegalovírus não pode ser curada, mas alguns antivirais podem limitar os problemas causados pela infecção provocada pelo citomegalovírus CMV é muito comum. Exames de sangue mostram que entre 60% e 90% dos adultos sofreram uma infecção por CMV em algum momento da sua vida. O vírus nunca desaparece completamente e permanece dormente inativo em vários tecidos por toda a vida. Às vezes, o vírus é que nunca tiveram CMV podem adquirir a infecção facilmente através do contato com pessoas infectadas, mais comumente crianças pequenas. A mulher também pode ter CMV ativo porque uma infecção anteriormente dormente foi reativada. Em qualquer dos casos, a mulher pode não apresentar nenhum sintoma. Quando um bebê contrai a infecção por CMV dentro do útero, ela é chamada de infecção congênita por CMV. Quando um bebê desenvolve a infecção imediatamente antes, durante ou logo após o nascimento, ela é chamada de infecção perinatal por CMV. infecção por CMV é a infecção viral congênita mais mulher pode passar o vírus para o feto durante a gravidez se o vírus atravessar a placenta o órgão que fornece nutrição ao feto e infectar o feto. Os recém-nascidos também podem ser infectados durante a passagem pelo canal de parto, leite materno contendo o vírus ou através de uma transfusão de sangue infecção pelo CMV pode causar problemas diferentes em recém‑nascidos, dependendo se eles foram infectados antes ou após o nascimento. Dentre os recém-nascidos infectados pelo CMV antes do nascimento, apenas cerca de 10% apresentam recém-nascidos infectados antes do nascimento, os sintomas possíveis incluem Baixo peso de nascimentoPequenas equimoses na peleFígado ou baço aumentadoInflamação dos pulmões ou olhosEm recém-nascidos infectados durante ou após o nascimento, os sintomas possíveis incluem Fígado ou baço aumentadoAlta contagem de glóbulos brancosAlguns recém-nascidos apresentam todos esses sintomas. Exames de urina, saliva ou amostras de tecidoTeste de reação em cadeia da polimerase PCR usando urina, saliva, sangue ou tecidosPara diagnosticar a infecção pelo CMV, os médicos coletam amostras da urina, saliva ou tecidos do recém-nascido. As amostras são enviadas para um laboratório para que o organismo que está causando a infecção possa ser identificado. Outros testes são feitos para procurar infecção e inflamação e para determinar a seriedade dos sintomas. Os médicos podem fazer outros exames para excluir outras infecções presente no nascimento que causam sintomas semelhantes ao CMV. Uma porcentagem significativa recém-nascidos sintomáticos infectados pelo CMV morrem. A maioria dos bebês sintomáticos que sobrevive terá alguns problemas neurológicos, incluindo Problemas de visãoCerca de 5% a 15% dos recém-nascidos sem sintomas acabam desenvolvendo problemas neurológicos, mas eles são normalmente leves em comparação aos problemas desenvolvidos por recém-nascidos com sintomas. O mais comum é algum grau de perda auditiva. As mulheres grávidas devem tentar limitar sua exposição ao vírus. Por exemplo, como a infecção pelo CMV é comum em crianças que frequentam creches e como ela se dissemina facilmente, as mulheres grávidas sempre devem lavar as mãos cuidadosamente após exposição a urina e saliva de crianças em creches. Ganciclovir ou valganciclovir para recém-nascidos sintomáticosNão há cura para a infecção pelo audição dos recém-nascidos deve ser repetidamente testada durante o primeiro ano de vida.
Bệnh bạch cầu đơn nhân nhiễm khuẩn do siêu vi khuẩn Epstein-Barr EBV, vi rút herpes type 4 và có đặc điểm là mệt mỏi, sốt, viêm họng, và hạch to. Mệt mỏi có thể kéo dài hàng tuần hoặc hàng tháng. Các biến chứng nghiêm trọng, bao gồm tắc nghẽn đường thở, vỡ lách, và hội chứng thần kinh, đôi khi xảy ra. Chẩn đoán là lâm sàng hoặc với xét nghiệm huyết thanh học EBV. Điều trị là hỗ là một loại virut gây herpes lây nhiễm cho 50% trẻ em trước 5 tuổi. Trên 90% người lớn có huyết thanh dương tính với EBV. Nó xảy ra ở con trùng EBV thường không có triệu chứng. Sau khi tiếp xúc trong khoang miệng, EBV sẽ lây nhiễm sang các tế bào lympho B. Các lympho bào bất thường về hình thái học không điển hình phát triển, chủ yếu từ các tế bào T CD8 + đáp ứng với sự nhiễm nhiễm trùng nguyên phát, EBV vẫn còn trong cơ thể, chủ yếu là các tế bào lympho B, và trải qua sự phát tán không triệu chứng từ vòm họng. Vi rút này có thể phát hiện được trong các chất tiết ở miệng và hầu họng từ 15 đến 25% người trưởng thành khỏe mạnh có huyết thanh dương tính với EBV. sự phát tán này làm tăng tần số và độ trong bệnh nhân suy giảm miễn dịch ví dụ người nhận cấy ghép nội tạng, người nhiễm HIV.EBV đã không được thu hồi từ các nguồn môi trường và không phải là rất dễ lây. Sự lây truyền có thể xảy ra thông qua việc truyền máu các sản phẩm nhưng thường xuyên xảy ra hơn thông qua hôn giữa một người không bị nhiễm bệnh và một người có EBV dương tính đang phát tán virus một cách không triệu chứng. Chỉ có khoảng 5% bệnh nhân có EBV từ những người bị nhiễm trùng cấp lây truyền ở trẻ em xảy ra thường xuyên hơn trong các nhóm kinh tế xã hội thấp hơn và trong điều kiện đông đúc. EBV có liên quan thống kê và có khả năng có một vai trò nhân quả trong Một số khối u tế bào B ở những bệnh nhân suy giảm miễn dịchDạng chắc chắn của U lympho HodgkinUng thư dạ dày Các triệu chứng và dấu hiệu của bệnh tăng bạch cầu đơn nhân truyền nhiễm Ở phần lớn trẻ nhỏ, nhiễm EBV nguyên phát không có triệu chứng. Các triệu chứng của bệnh bạch cầu đơn nhân nhiễm khuẩn phát triển ở trẻ lớn và người kỳ ủ bệnh là từ 30 đến 50 ngày. Mệt mỏi có thể kéo dài hàng tháng nhưng thường là tối đa trong 2 đến 3 tuần đầu hết bệnh nhân đều có 3 dấu hiệu SốtViêm họngHạchThường sốt cao vào buổi chiều hoặc buổi chập tối, với nhiệt độ khoảng 39,5°C, nó có thể đạt đến 40,5° họng có thể nặng, đau đớn, và toát mồ hôi và có thể giống viêm họng do Streptococcus. Adenopathy thường có tính đối xứng và có thể liên quan đến bất kỳ nhóm hạch nào, đặc biệt là chuỗi hạch cổ trước và sau. Adenopathy có thể là biểu hiện duy triệu chứng và dấu hiệu khác bao gồm Lách toGan to nhẹ và gõ đauphù quanh hốc mắt và vòm miệngÍt khi nổi sẩnHiếm khi vàng daLách to, xảy ra trong khoảng 50% trường hợp, là tối đa trong tuần thứ 2 và thứ 3 và kết quả thường chỉ khó khi sờ thấy lách to. Các biến chứng Mặc dù hồi phục thường hoàn toàn, nhưng các biến chứng có thể trở nên nguy biến chứng thần kinh rất hiếm nhưng có thể bao gồm viêm não, động kinh, hội chứng Guillain-Barré, bệnh thần kinh ngoại vi, viêm màng não, viêm tủy, bệnh thần kinh sọ, và rối loạn tâm thần. Viêm não có thể xuất hiện với rối loạn chức năng tiểu não, hoặc có thể tiến triển toàn cầu và nhanh chóng, tương tự như viêm não do herpes simplex, nhưng thường xuất hiện giới biến chứng về huyết học thường tự giới hạn. Chúng bao gồm Giảm bạch cầuGiảm tiểu cầuChứng tan máu, thiếu máuGiảm bạch cầu hạt nhẹ thoáng qua hoặc giảm tiểu cầu xảy ra ở khoảng 50% số bệnh nhân; trường hợp nặng bị nhiễm trùng do vi khuẩn hoặc chảy máu ít xảy ra hơn. Thiếu máu tan huyết thường do các kháng thể anti-i-specific cold-agglutinin cụ biến chứng hô hấp bao gồm ít khi tắc nghẽn đường thở trên do hạch lympho hoặc bệnh hạch bạch huyết; các biến chứng hô hấp có thể đáp ứng với corticosteroid. Xét nghiệm kháng thể HeterophileĐôi khi xét nghiệm huyết thanh học EBV Đo tải lượng virut HIV trong máuKết hợp xét nghiệm miễn dịch kháng thể và kháng nguyên P24Xét nghiệm HIV ELISA/Kỹ thuật xét nghiệm Western blot thường là âm tính trong suốt thời kỳ nhiễm trùng cấp tính do đó không nên sử dụng đơn độc xét nghiệm này để chẩn đoán nhiễm HIV giai đoạn sớm. Đo tải lượng HIV RNA và phát hiện kháng nguyên P24 chẩn đoán chính xác hơn khi nhiễm HIV cấp tính vì HIV RNA và kháng nguyên p24 có trong máu trước khi các kháng thể HIV phát triển. Chẩn đoán xét nghiệm thường bao gồm xét nghiệm công thức máu và EBV trong huyết thanh. Các tế bào lympho có hình dạng không điển hình chiếm đến 30% số lượng bạch cầu. Mặc dù các lympho bào riêng lẻ có thể giống với lympho bào bạch huyết và lympho bào không điển hình,nhưng chúng chưa chắc có trong bệnh bạch cầu Tổng quan về Bệnh bạch cầu Bệnh bạch cầu là một tình trạng ác tính liên quan đến việc sản xuất quá nhiều bạch cầu chưa trưởng thành hoặc bất thường, cuối cùng sẽ ngăn chặn việc sản sinh ra các tế bào máu bình thường và... đọc thêm . Các lympho bào không điển hình cũng có thể có khi nhiễm HIV Nhiễm trùng HIV/AIDS ở người Nhiễm vi rút gây suy giảm miễn dịch ở người HIV là hậu quả của nhiễm 1 trong số 2 retrovirus tương tự nhau HIV-1 và HIV-2 chúng phá hủy tế bào lympho CD4+ và làm giảm khả năng miễn dịch... đọc thêm hoặc CMV Nhiễm Cytomegalovirus CMV Cytomegalovirus CMV, vi rút herpes người type 5 có thể gây nhiễm trùng có nhiều mức độ nghiêm trọng. Hội chứng tăng bạch cầu đơn nhân nhiễm khuẩn nhưng không kèm viêm họng nghiêm trọng thì... đọc thêm , viêm gan B Viêm gan B, cấp tính Nguyên nhân của viêm gan B là do vi-rút DNA thường lây truyền qua đường tiêm truyền. Bệnh gây ra các triệu chứng điển hình của viêm gan vi-rút, bao gồm chán ăn, khó chịu và bệnh vàng da. Viêm... đọc thêm , cúm B Cúm Cúm là một bệnh nhiễm trùng hô hấp do vi rút gây sốt, sổ mũi, ho, đau đầu và mệt mỏi. Tỷ lệ tử vong có thể xảy ra trong các đợt dịch bộc phát theo mùa, đặc biệt là ở những bệnh nhân có nguy... đọc thêm , rubella hoặc Rubella Xem thêm Bệnh Rubella bẩm sinh. Rubella là một bệnh nhiễm trùng do virus gây ra, có thể gây ra bệnh hạch bạch huyết, phát ban, và đôi khi các triệu chứng toàn thân, thường nhẹ và ngắn. Nhiễm... đọc thêm các bệnh do vi rút khác, do đó chẩn đoán cần phải xét nghiệm huyết thanh. Tuy nhiên, số lượng lympho bào không điển hình thường chỉ thấy ở nhiễm EBV và CMV sơ cấp. Hai xét nghiệm huyết thanh được sử dụng để chẩn đoán nhiễm EBV cấp tính là Xét nghiệm kháng thể HeterophileXét nghiệm kháng thể EBV đặc hiệuKháng thể hetophile được đo bằng các test kết cụm ngưng kết monospot khác nhau. Tuy nhiên, các kháng thể heterophile chỉ có ở 50% bệnh nhân < 5 năm và khoảng 80 đến 90% thanh thiếu niên và người lớn có bệnh tăng bạch cầu đơn nhân nhiễm khuẩn. Điều quan trọng là xét nghiệm kháng thể heterophile có thể là dương tính giả ở một số bệnh nhân nhiễm HIV cấp tính. hiệu giá và sự xuất hiện của các kháng thể heterophile tăng trong tuần thứ 2 và thứ 3 của bệnh. Do đó, nếu chẩn đoán nghi ngờ và xét nghiệm kháng thể dị ái âm tính ở giai đoạn đầu của bệnh trên lâm sàng trong tuần đầu tiên, xét nghiệm có thể được lặp lại khoảng 7 ngày sau đó. Ngoài ra, có thể thực hiện xét nghiệm kháng thể EBV. Bệnh bạch cầu đơn nhân nhiễm khuẩn thường tự khỏi. Thời gian mắc bệnh thay đổi; giai đoạn cấp tính kéo dài khoảng 2 tuần. Nói chung, 20% bệnh nhân có thể trở lại trường học hoặc làm việc trong vòng 1 tuần, và 50% trong vòng 2 tuần. Mệt mỏi có thể kéo dài thêm vài tuần, trong 10% trường hợp có thể là nhiều xảy ra ở < 1%, chủ yếu là do các biến chứng ví dụ, viêm não, vỡ lách, tắc nghẽn đường thở. Chăm sóc hỗ trợCorticosteroid có thể hữu ích cho bệnh nặngĐiều trị nhiễm bệnh bạch cầu đơn nhân nhiễm khuẩn lây nhiễm là hỗ trợ. Bệnh nhân được khuyến khích nghỉ ngơi trong giai đoạn cấp tính nhưng có thể tiếp tục hoạt động khi sốt, viêm họng, và khó chịu. Để ngăn ngừa vỡ lách, bệnh nhân nên tránh tập nặng và các hoạt động thể thao trong vòng 1 tháng sau phát hiện và cho đến khi triệu chứng lách to có thể được theo dõi bằng siêu âm được giải dù corticosteroid làm hạ sốt và giảm viêm họng, nhưng nói chung chúng không nên được sử dụng trong các bệnh không biến chứng. Corticosteroid có thể hữu ích cho các biến chứng như nguy cơ tắc nghẽn đường thở, giảm tiểu cầu nghiêm trọng, và thiếu máu tan máu. Mặc dù acyclovir đường uống hoặc tiêm tĩnh mạch làm giảm EBV của miệng-họng, không có bằng chứng thuyết phục để đảm bảo việc sử dụng lâm sàng của nó. Nhiễm vi khuẩn EBV rất phổ biến; vi rút vẫn còn trong vật chủ cả đời nhưng không còn triệu chứng ở có khoảng 5% bệnh nhân có EBV từ những người bị nhiễm trùng cấp biểu hiện điển hình bao gồm mệt mỏi đôi khi kéo dài vài tuần hoặc vài tháng, sốt, viêm họng, lách to và nang bạch huyết biến chứng nghiêm trọng không thường gặp bao gồm viêm não và các biểu hiện thần kinh khác, vỡ lách, tắc nghẽn đường thở do viêm amidan cấp, thiếu máu tan huyết, giảm tiểu cầu và vàng xét nghiệm kháng thể dị ái hoặc xét nghiệm kháng thể EBV đặc HIV nguyên phát có thể có biểu hiện lâm sàng tương tự như EBV cấp tính; do đó, xét nghiệm HIV được thực hiện ở những bệnh nhân có nguy cơ nhiễm cấp chăm sóc hỗ trợ và đề nghị tránh các hoạt động gắng sức;các thuốc chống virut không được chỉ xét sử dụng corticosteroids cho các biến chứng như nguy cơ tắc nghẽn đường thở, giảm tiểu cầu nghiêm trọng, và thiếu máu tan huyết.
Nhiễm Cytomegalovirus là một trong những bệnh nhiễm virus bẩm sinh thường gặp nhất khiến trẻ chậm tăng trưởng trong tử cung, sinh non, não nhỏ, viêm thị giác, viêm phổi, viêm gan CMV ở trẻ sơ sinh gây vàng da, xuất huyết dưới da, gan lách lớn. Chẩn đoán dựa vào kết quả cấy tìm virus hoặc PCR, phương pháp điều trị hỗ trợ là chủ yếu, có thể hạn chế sự suy giảm thính giác bằng cách truyền tĩnh mạch Ganciclovir. 1. Cytomegalovirus là gì? Cytomegalovirus CMV là loại virus thuộc họ herpes virus có khả năng gây ra các bệnh nhiễm trùng như thuỷ đậu, giời leo,... Virus có thể lây nhiễm ở nhiều lứa tuổi, đa phần người nhiễm virus là đối tượng bị suy giảm miễn dịch như trẻ sơ sinh, trẻ nhỏ, phụ nữ mang thai. Các nguyên nhân gây nên sự lây truyền virus CMV làVệ sinh cá nhân và vệ sinh cộng đồng kémTiếp xúc dịch cơ thể với người bệnh máu, nước bọt, nước tiểu, sữa, tinh dịch và lây truyền qua nhau thi khi người mẹ mắc nhiễm CMVMột khi CMV đã nhiễm vào cơ thể thì thường sẽ tồn tại suốt đời, rất khó phát hiện ra vì không rõ triệu chứng. Tuy nhiên khi hệ miễn dịch bị suy giảm cũng là lúc CMV tái hoạt động gây ra bệnh lý cho cơ thể. 2. Các triệu chứng viêm gan CMV ở trẻ Có tới 10% trẻ sơ sinh nhiễm CMV bẩm sinh có triệu chứng lúc sinh. Các biểu hiện bao gồmSinh nonVàng daXuất huyết dưới daGan lách lớnViêm ganViêm phổiMất thính giácTrẻ sơ sinh nhiễm CMV lúc sinh hoặc sau sinh có thể mắc hội chứng giống nhiễm khuẩn huyết, viêm phổi, gan lách to, viêm gan dẫn tới suy gan, xuất huyết giảm tiểu cầu và tăng lympho bào không điển hình. Tuy nhiên trẻ nhiễm CMV từ mẹ qua sữa thì nguy cơ bệnh biểu hiện nặng và di chứng lâu dài sẽ thấp hơn. Ngoài ra, trẻ nhiễm cytomegalovirus ở tuổi đi học và trẻ dậy thì sẽ có các triệu chứng viêm gan CMV như mệt mỏi, đau cơ, nhức đầu, sốt, phì đại gan và lách tuy nhiên triệu chứng thường nhẹ và chỉ kéo dài từ 2-3 tuần. 3. Chẩn đoán và điều trị viêm gan CMV ở trẻ nhỏ Chẩn đoán viêm gan do CMV ở trẻ nhỏ có thể thông qua xét nghiệm từ mẫu dịch cổ họng, nước tiểu, máu, mô hoặc dịch thể khác. Hiện tại chưa có biện pháp điều trị cụ thể nào được khuyến cáo cho trẻ em khỏe mạnh bị nhiễm trẻ sơ sinh, trẻ nhỏ có rối loạn miễn dịch như AIDS, nhiễm CMV có thể đe dọa tính mạng. Những người này có thể điều trị bằng thuốc kháng virus tiêm tĩnh mạch. Trẻ sơ sinh thường phải nằm trong bệnh viện điều trị vì thuốc kháng virus có khả năng gây ra tác dụng phụ nghiêm trọng do đó cần theo dõi sơ sinh viêm gan CMV có triệu chứng được cho dùng thuốc kháng virus. Valganciclovir uống 16 mg/kg x 6 tháng để làm giảm sự lan truyền của virus ở trẻ sơ sinh bị CMV bẩm sinh và cải thiện mức độ vừa kết quả chức năng nghe và phát triển thần kinh ở tuổi 12 và 24 tháng. 4. Phòng ngừa viêm gan CMV ở trẻ em như thế nào? Phụ nữ mang thai chưa có miễn dịch nên tránh tiếp xúc với nguồn CMV, luôn rửa tay sạch sẽ sau khi tiếp xúc với nước tiểu và các chất tiết đường miệng hoặc đường hô hấp của trẻTránh CMV chu sinh liên quan đến truyền máu bằng cách truyền máu ở trẻ sinh non bằng máu với CMV âm tính hoặc các sản phẩm từ máu đã làm sạch bạch cầuPhụ nữ cho con bú bị nhiễm CMV không nên ngừng cho con bú sữa mẹ vì những lợi ích từ sữa mẹ có nhiều giá trị hơn so với nguy cơ truyền CMV sang cho béYêu cầu trẻ và những người tiếp xúc với trẻ rửa tay thường xuyênKhông để trẻ dùng chung vật dụng với người khác và tránh để trẻ tiếp xúc với những người bị nhiễm bệnhVaccine phòng ngừa CMV bẩm sinh hiện vẫn chưa được phát triểnKhi đã tìm hiểu và có thêm kiến thức về viêm gan CMV ở trẻ em, cha mẹ nên chú ý nhiều hơn tới vấn đề chăm sóc và nuôi dạy con để bé luôn có được sức khỏe tốt nhất trong những năm tháng đầu đời. Để đặt lịch khám tại viện, Quý khách vui lòng bấm số HOTLINE hoặc đặt lịch trực tiếp TẠI ĐÂY. Tải và đặt lịch khám tự động trên ứng dụng MyVinmec để quản lý, theo dõi lịch và đặt hẹn mọi lúc mọi nơi ngay trên ứng dụng. XEM THÊM Bệnh zona chữa bao lâu thì khỏi? Virus cytomegalo CMV là gì? Dấu hiệu nhiễm bệnh Chẩn đoán và điều trị nhiễm virus cytomegalo CMV
A infecção por citomegalovírus pode ser adquirida no período pré ou perinatal, sendo a infecção viral congênita mais comum. Sinais ao nascimento, se presentes, são retardo de crescimento intrauterino, prematuridade, microcefalia, icterícia, petéquia, hepatoesplenomegalia, calcificações periventriculares, coriorretinite, pneumonite hepatite e perda auditiva neurossensorial. Ainda no lactente, os sinais podem incluir pneumonia, hepatoesplenomegalia, hepatite, trombocitopenia, síndrome semelhante à sepse e linfocitose atípica. O melhor diagnóstico da infecção neonatal é feito pela detecção viral por meio de cultura ou PCR polymerase chainreaction. O tratamento é principalmente de suporte. Ganciclovir parenteral ou valganciclovir oral podem prevenir a deterioração auditiva e melhorar os desfechos de desenvolvimento e é administrado para recém-nascidos com doença sintomática identificada no período citomegalovírus CMV é frequentemente isolado em neonatos. Embora a maioria dos lactentes que albergam o vírus seja assintomática, outros apresentam doenças com risco de vida e sequelas devastadoras a longo se sabe quando uma mulher portadora de CMV primário pode dar à luz com segurança. Como é difícil avaliar o risco a que o feto está submetido, mulheres que desenvolvem CMV primário durante a gestação devem ser alertadas, embora alguns especialistas prefiram recomendar exames sorológicos de rotina para CMV antes e durante a gestação em mulheres saudáveis. Infecção congênita por CMV ocorre em 0,2 a 1% dos nascidos vivos no mundo todo, resultado da aquisição transplacentária de infecção materna primária ou recorrente. No neonato, a doença aparente clinicamente ocorre com maior probabilidade após exposição materna primária, principalmente na primeira metade da gestação. Em alguns grupos de posição socioeconômica mais elevada nos EUA, cerca de 50% das mulheres jovens não têm anticorpos anti-CMV, tornando-as suscetíveis a infecção perinatal por CMV é adquirida por exposição de secreções infectadas do canal de parto, leite do peito ou sangue. Admite-se que os anticorpos maternos sejam protetores, e a maioria dos recém-nascidos de termo expostos é assintomática ou não infectada. Por outro lado, os pré-termos Prematuros Considera-se o bebê nascido antes de 37 semanas de gestação prematuro. Define-se a prematuridade pela idade gestacional em que os lactentes nascem. Anteriormente, qualquer recém-nascido pesando... leia mais que não apresentam anticorpos anti-CMV podem desenvolver infecções graves ou morrer, particularmente quando recebem transfusão de sangue com CMV positivo. Esforços devem ser envidados para que a transfusão de sangue ou derivados seja CMV-negativa ou que seja utilizado sangue que tenha sido filtrado para remoção de leucócitos, que contêm CMV. Esse sangue leucorreduzido é considerado por muitos especialistas como sendo seguro contra CMV. Sinais e sintomas da infecção congênita e perinatal por CMV Cerca de 10% dos lactentes com CMV congênito são sintomáticos ao nascimento. As manifestações incluem Restrição do crescimento intrauterinoPetéquiasHepatoesplenomegaliaCalcificações periventricularesCoriorretiniteHepatitePneumoniteLactentes com a forma adquirida de CMV durante oi após o nascimento, especialmente se forem prematuros, podem apresentar síndrome semelhante a sepse, pneumonia, hepatoesplenomegalia que pode levar à insuficiência hepática, hepatite, trombocitopenia, linfocitose atípica. Entretanto, se a transmissão é através do leite materno, o risco de doença grave sintomática e sequelas a longo prazo é baixo. Cultura viral de urina, saliva ou tecidoPCR polymerase chainreaction de urina, saliva, sangue ou tecido Hemograma completo com contagem diferencial e testes hepáticos, embora não sejam específicos, podem ser úteis. Devem-se solicitar também ultrassonografia ou TC do crânio e avaliação oftalmológica. Calcificações periventriculares são comuns na de audição devem ser realizados rotineiramente no nascimento em todos os neonatos infectados e monitoramento atento contínuo é exigido porque a perda da audição pode se desenvolver após o período neonatal e ser progressiva. Os neonatos sintomáticos apresentam taxa de mortalidade de até 30%, e 40 a 90% dos que sobrevivem apresentam algumas disfunções neurológicas, incluindo Distúrbios visuaisAlém disso, 5 a 15% dos neonatos assintomáticos eventualmente desenvolvem sequelas neurológicas; perda auditiva é a mais comum. Ganciclovir ou valganciclovir para recém-nascidos sintomáticos 1. Kimberlin DW, Jester PM, Sánchez PJ, et al Valganciclovir for symptomatic congenital cytomegalovirus disease. N Engl J Med 37210933–943, 2015. doi A gestante não imunizada deve estar atenta para não se expor ao vírus. Por exemplo, como a infecção por CMV é comum entre as crianças que são atendidas em creches, a gestante deve sempre lavar as mãos cuidadosamente após exposição a urina ou secreções respiratórias ou orais das doença por CMV perinatal associada às transfusões pode ser evitada se os neonatos pré-termos receberem hemoderivados de doadores CMV-soronegativos ou produtos leucorreduzidos. 1. Revello MG, Lazzarotto T, Guerra B, et al A randomized trial of hyperimmune globulin to prevent congenital cytomegalovirus. N Engl J Med 370141316–1326, 2014. doi Hughes BL, Clifton RG, Rouse DJ, et al A trial of hyperimmune globulin to prevent congenital cytomegalovirus infection. N Engl J Med 3855436–444, 2021. doi Cytomegalovirus CMV é a infecção viral congênita mais comum e pode ser assintomática ou órgãos podem ser afetados, e risco de nascimentos prematuros infecção congênita por CMV sintomática de outras infecções congênitas p. ex., toxoplasmose, rubéola, vírus da coriomeningite linfocítica, sífilis usando PCR polymerase chainreaction ou cultura IV ou valganciclovir oral podem ajudar a prevenir a perda auditiva e atraso no desenvolvimento em crianças com infecção sintomática. Visão Educação para o paciente
nhiễm cmv trẻ em